Theo thống kê trong 4 năm nhiệm kỳ của ông Trump, chỉ số S&P 500 có diễn biến tốt hơn rất nhiều so với các nhiệm kỳ tổng thống khác.
Hiện nay, nhà đầu tư phố Wall đang có trào lưu mang tên “Trump trade”, tức là đầu tư theo những ngành hưởng lợi dưới thời kỳ ông Trump nắm quyền, bao gồm các lĩnh vực bất động sản, tài chính, năng lượng truyền thống. Các nhà đầu tư hạ kỳ vọng tại các ngành năng lượng tái tạo, nhóm ngành tiện ích – utilities (khí đốt, nước, điện…).
Theo thống kê, trong năm đầu tiên ông Trump đắc cử, VN-Index tăng 58%, 2 năm sau đó tăng 46% và cuối nhiệm kỳ của ông Trump thì Covid bùng phát nhưng tổng kết sau 4 năm, VN-Index vẫn tăng 65%.
Sau 2 năm ông Trump đắc cử, các ngành diễn biến tốt tại thị trường chứng khoán Việt Nam cũng là các ngành ngân hàng, dầu khí và công nghiệp… là các ngành cổ phiếu truyền thống.
Những điều diễn ra trong quá khứ không chắc sẽ diễn ra trong tương lai, nhưng các nhà đầu tư sử dụng số liệu trong quá khứ để dự đoán tương lai, nên đây cũng là thống kê thú vị để nhà đầu tư theo dõi.
Nội dung chính
Còn theo các nhà phân tích của RBC cho biết chiến thắng của ông Donald Trump sẽ có lợi nhất cho nhóm cổ phiếu năng lượng và tài chính.
Các nhà phân tích coi chiến thắng của ôg Trump là động thái tăng giá chung cho cổ phiếu, trong khi chiến thắng của bà Harris mang tính bi quan hơn.
Theo RBC Capital Markets, chiến thắng của ông Donald Trump vào tháng 11 có thể là kết quả tốt nhất cho thị trường chứng khoán và hai lĩnh vực cụ thể là cổ phiếu trong lĩnh vực năng lượng và tài chính sẽ được hưởng lợi nhiều nhất. Đây vốn là hai lĩnh vực được các chính sách của cựu Tổng thống Donald Trump ủng hộ từ lâu.
Các nhà phân tích cho biết những lĩnh vực này sẽ chứng kiến mức tăng trưởng lớn nhất từ chiến thắng của ông Trump, đặc biệt là nếu đảng Cộng hòa nắm giữ cả Nhà Trắng và Quốc hội.
“Một số giao dịch truyền thống của ông Trump tiếp tục xuất hiện trong các đánh giá chính sách… Năng lượng và Tài chính có một số xu hướng tăng giá nhất trong kịch bản của đảng Cộng hòa và một số xu hướng giảm giá nhất trong kịch bản của đảng Dân chủ”, các nhà phân tích cho biết trong báo cáo.
Báo cáo được công bố vào thứ Tư, đưa ra những hiểu biết sâu sắc từ một cuộc khảo sát các nhà phân tích của RBC.
Các nhà phân tích cho biết chiến thắng của đảng Dân chủ sẽ là xu hướng giảm giá đối với cổ phiếu ngành năng lượng và tài chính, trong khi chiến thắng của Phó Tổng thống Kamala Harris sẽ trung lập hơn.
Năng lượng
Các nhà phân tích cho biết các chính sách của ông Trump ủng hộ sản xuất nhiên liệu hóa thạch trong nước vì chúng nhằm mục đích giảm các yêu cầu về quy định, qua đó sẽ giảm chi phí. Họ cho biết điều đó có thể thúc đẩy sản xuất dầu khí nhiều hơn.
Các nhà phân tích nói thêm rằng việc giảm bớt quy định sẽ giúp giảm chi phí đường ống, cho phép xây dựng nhiều hơn cơ sở hạ tầng vận chuyển và lưu trữ.
Trong khi đó, các chính sách năng lượng của bà Harris, mặt khác, sẽ chuyển hướng nhiều động lực hơn sang xe điện, gây ra rủi ro giảm giá đối với nhu cầu dầu trong tương lai.
“Bà Harris ủng hộ năng lượng thay thế hơn ông Trump và ông Trump ủng hộ năng lượng truyền thống hơn bà Harris, và thiên kiến của họ ở đây là một trong những khác biệt lớn nhất về góc độ đầu tư giữa hai bên về chính sách trong nước”, các nhà phân tích cho biết.
Tuy nhiên, các nhà phân tích cũng lưu ý rằng lời cam kết tiếp tục cho phép khai thác khí đá phiến của Harris là một điều tích cực cho ngành.
Tài chính
Đối với tài chính, các nhà phân tích cho biết việc cắt giảm thuế doanh nghiệp của ông Trump là lý do lớn nhất khiến họ lạc quan.
Trong bài phát biểu vào tháng trước, ông Trump cho biết ông sẽ thúc đẩy việc hạ thuế thu nhập doanh nghiệp xuống 15%. Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, Đạo luật cắt giảm thuế và việc làm năm 2017 của ông đã hạ thuế doanh nghiệp xuống 21%, giảm từ 35%.
Trong khi đó, bà Harris có kế hoạch tăng thuế doanh nghiệp từ 21% lên 28%.
Các nhà phân tích cũng thấy ông Trump và đảng Cộng hòa nói chung đang tạo ra một môi trường quản lý thuận lợi hơn với ít sự giám sát hơn đối với tài chính.
“Cụ thể, chúng tôi tin rằng quy trình phê duyệt theo quy định đối với các giao dịch ngân hàng lớn hơn sẽ ít gánh nặng hơn và mốc thời gian có thể được đẩy nhanh hơn, điều này sẽ giúp thúc đẩy nhiều hoạt động M&A hơn trên toàn không gian của chúng tôi”, các nhà phân tích ngân hàng khu vực của RBC cho biết.
Nhìn chung, các nhà phân tích cho rằng kết quả quan trọng hơn chỉ đơn giản là kết thúc cuộc bầu cử, điều này đã gây ra biến động đáng kể cho thị trường trước cuộc đua ngày 5/11.
“Kết quả khảo sát củng cố thêm niềm tin ngày càng tăng của chúng tôi rằng điều có thể quan trọng nhất đối với cổ phiếu Hoa Kỳ (cho năm 2024) là vượt qua sự kiện này để các công ty và nhà đầu tư biết họ đang phải đối mặt với điều gì”, các nhà phân tích cho biết.
Bà Harris có lập trường mềm mỏng hơn trong các vấn đề thương mại, nếu bà thắng cử sẽ thúc đẩy hoạt động thương mại giữa Việt Nam và Mỹ hơn so với ông Trump, qua đó hỗ trợ cho sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam nhiều hơn.
Ông Trump với lập trường cứng rắn
Lập trường tranh cử của hai ứng cử viên Tổng thống Mỹ là bà Kamala Harris (ứng cử viên của Đảng Dân chủ) và ông Donald Trump (ứng cử viên của Đảng Cộng hòa) có sự khác biệt lớn. Tuy nhiên, bài viết này chỉ tập trung vào các yếu tố tác động đến kinh tế Việt Nam.
Theo đó, lập trường của ông Trump tập trung vào việc phục hồi kinh tế Mỹ và giảm thâm hụt thương mại. Cụ thể, ông Trump muốn mở rộng sản xuất, thu hút thêm vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất trong nước bằng nhiều chính sách hỗ trợ. Như vậy sẽ tác động đến quyết định đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Mỹ, qua đó làm suy giảm dòng vốn đầu tư toàn cầu. Hiện Việt Nam có mối quan hệ hợp tác chiến lược với Mỹ và các doanh nghiệp Mỹ đang cân nhắc mở rộng hợp tác với Việt Nam. Với chính sách này, nhiều doanh nghiệp Mỹ sẽ cân nhắc lại việc hợp tác này.
Bên cạnh đó, để tài trợ cho các hoạt động này, Ông Trump sẽ sử dụng một mức thuế chung cho tất cả hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ, đồng thời đánh mức thuế cao hơn với một số hàng hóa từ Trung Quốc. Dĩ nhiên sẽ ảnh hưởng đến hoạt động thương mại toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng.
Giá trị xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ của Việt Nam
Nguồn: Hải Quan Việt Nam
|
Với kinh tế Việt Nam, hàng hóa xuất khẩu vào Mỹ sẽ kém cạnh tranh hơn khi chịu mức thuế quan chung này. Một cách trực tiếp, hàng hóa xuất khẩu vào Mỹ từ Việt Nam sẽ có sự suy giảm hoặc tăng trưởng kém hơn kỳ vọng. Bên cạnh đó, do chịu mức thuế xuất khẩu vào Mỹ, hàng hóa từ Trung Quốc sẽ chuyển hướng sang các thị trường khác có mức thuế thấp hơn hoặc không có thuế nhập khẩu như các nước Đông Á hoặc Đông Nam Á. Đây là động thái sẽ tạo áp lực cạnh tranh không nhỏ lên các nhà sản xuất từ Việt Nam.
Bà Harris ủng hộ thương mại quốc tế
Bà Harris thể hiện lập trường mềm mỏng hơn trong vấn đề kinh tế và thương mại. Cụ thể, bà Harris từ chối áp đặt một mức thuế chung với tất cả hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ. Thay vào đó, thuế quan nên tập trung vào một số mặt hàng và quốc gia nhất định, chủ yếu là các hàng hóa từ Trung Quốc. Chính sách này, hiện đang được chính quyền Biden thực hiện, đây là điều giúp hoạt động xuất khẩu từ doanh nghiệp Việt Nam vẫn diễn ra bình thường. Trong một số trường hợp, hoạt động xuất khẩu từ Việt Nam sẽ được hưởng lợi nếu thuế nhập khẩu tăng với hàng hóa Trung Quốc.
Giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ theo tháng
Nguồn: Hải Quan Việt Nam
|
Một điểm quan trọng trong cách tiếp cận của bà Harris đối với các vấn đề thương mại là bà muốn thúc đẩy mối quan hệ hợp tác toàn diện với Việt Nam (đặc biệt trong các lĩnh vực thương mại) và hợp tác với các doanh nghiệp Mỹ. Chính sách này giúp dòng vốn quốc tế chảy vào Việt Nam, đặc biệt là dòng vốn từ Mỹ.
Như vậy, các chính sách về thương mại của bà Harris hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế hơn so với các chính sách từ ông Trump.
Thách thức với kinh tế Việt Nam
Bất kể kết quả bầu cử của Mỹ như thế nào, tình hình căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thế giới, bao gồm cả Việt Nam. Một điểm sáng là Việt Nam có thể gia tăng thị phần xuất khẩu sang Mỹ, nhờ lợi thế về các mặt hàng mà Mỹ đã áp thuế với Trung Quốc, đây cũng là những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng chịu áp lực từ sự phụ thuộc vào thị trường nhập khẩu và đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc nhằm xử lý vấn đề hàng tồn kho của nước này. Bên cạnh đó, các mối lo ngại về suy giảm tiêu dùng ở Trung Quốc cũng khiến cho việc xuất khẩu của Việt Nam sang quốc gia này gặp khó khăn, cùng với sự cảnh giác cao độ về việc Trung Quốc có thể lách luật thuế bằng cách dán nhãn “sản xuất tại Việt Nam”.
Ông Trump doạ đánh thuế mọi hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ, những mặt hàng nào của Việt Nam chịu rủi ro?
Nếu cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump trở lại Nhà Trắng, thuế quan sẽ một lần nữa giữ vai trò quan trọng trong chương trình nghị sự của ông.
“Quý ngài thuế quan”
Trong lịch sử nước Mỹ, có lẽ không một chính trị gia nào yêu thích thuế quan như ông Donald Trump, ứng viên tổng thống của Đảng Cộng hoà năm nay.
Trong bài phát biểu tại toà thị chính thành phố Warren (bang Michigan) cách đây hai tuần, ông tuyên bố với đám đông người ủng hộ: “Thuế quan là thứ tuyệt vời nhất từng được phát minh”.
Theo một phân tích của viện chính sách Tax Foundation, trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên, ông Trump đã áp thuế quan lên khoảng 380 tỷ USD hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ.
Hàng nghìn sản phẩm do Trung Quốc sản xuất, từ quần áo, xe đạp cho đến tivi và giày thể thao, phải chịu thuế đến hai chữ số. Ngoài ra, ông Trump còn nhắm vào thép, nhôm, máy giặt và tấm pin mặt trời của các nước khác.
Giờ đây, người đàn ông 78 tuổi đang cân nhắc nâng mức thuế quan đối với hàng hoá Trung Quốc lên 60% hoặc cao hơn. Ông cũng liên tục đề cập đến mức thuế quan chung lên đến 20% cho hàng nhập khẩu từ tất cả các nước khác.
“Cuối cùng thì sau 75 năm, các quốc gia khác sẽ trả ơn chúng ta vì tất cả những gì chúng ta đã làm cho thế giới”, ông Trump gợi nhắc trong cuộc tranh luận tổng thống duy nhất với ứng viên Đảng Dân chủ Kamala Harris.
Ông cũng đề xuất sử dụng thuế quan như một công cụ nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất trong nước. Để chính sách thêm hiệu quả, nhiều khả năng ông Trump sẽ sử dụng kết hợp thuế quan với việc cắt giảm thuế doanh nghiệp.
Trong khi bà Harris nêu kế hoạch tăng thuế suất doanh nghiệp từ 21% lên 28%, ông Trump kêu gọi giảm thuế xuống 15%.
Tuy nhiên, ông nhấn mạnh ưu đãi sẽ chỉ dành cho các công ty sản xuất tại Mỹ, còn những doanh nghiệp thuê sản xuất ngoài, chuyển dây chuyền ra nước ngoài hoặc không sử dụng lao động Mỹ thì không đủ điều kiện.
Trong bài phát biểu tại Michigan, ứng viên tổng thống của Đảng Cộng hoà bày tỏ: “Nếu bạn không sản xuất sản phẩm ở đây, thì bạn sẽ phải trả thuế doanh nghiệp hoặc đóng thuế quan khi đưa hàng hoá vào Mỹ”.
Về lý thuyết, các đề xuất của ông Trump nghe có vẻ hấp dẫn. Song, thực tế cho thấy mọi thứ phức tạp hơn nhiều. Lịch sử cho thấy thuế quan hiếm khi tác động tích cực đến việc làm trong lĩnh vực sản xuất.
Ngược lại, áp đặt thuế quan bừa bãi có nguy cơ làm đảo lộn hoạt động thương mại toàn cầu và gây hại cho chính người tiêu dùng Mỹ.
Viện Kinh tế Quốc tế Peterson lo ngại rằng kế hoạch áp thuế của ông Trump sẽ không còn giới hạn Mỹ trong cuộc thương chiến với Trung Quốc nữa mà sẽ trở thành cuộc chiến chống lại chính hệ thống thương mại.
Đã đến lúc chúng ta nên nhớ lại một phần lịch sử bị lãng quên của nước Mỹ: cuộc chiến thương mại toàn cầu trong thời kỳ Đại Khủng hoảng.
Năm 1930, Tổng thống Herbert Hoover đã thông qua Đạo luật Thuế quan (hay Đạo luật Smoot-Hawley). Dựa theo đạo luật này, Mỹ đã tăng thuế lên gần 900 mặt hàng nhập khẩu từ đường đến trứng. Thuế quan tăng 15 – 20% lên trung bình khoảng 47%.
Động thái này ngay lập tức khiến hàng chục quốc gia, bao gồm cả các đối tác thương mại lớn của Mỹ là Anh, Canada và Mexico, tung đòn trả đũa. Các nhà kinh tế đồng tình rằng thuế quan đã góp phần làm sâu sắc thêm Đại Khủng hoảng, kéo tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ lên mức kỷ lục 25%.
“Thuế quan là thứ tuyệt vời nhất từng được phát minh
Lần này ai vào tầm ngắm?
So với gần một thế kỷ trước, danh sách các đối tác thương mại lớn nhất của Mỹ đã có nhiều xáo trộn. Vậy, nếu Trump quay trở lại Nhà Trắng và áp đặt thuế quan phổ quát như ông đe doạ, những thị trường nào sẽ chịu ảnh hưởng?
Tại các sự kiện vận động tranh cử kể từ đầu tháng 9, ứng viên tổng thống của Đảng Cộng hoà đã đưa ra một vài gợi ý.
Ở cuộc mít tinh tại bang Wisconsin, ông Trump tuyên bố: “Tôi sẽ tăng thuế quan lên hàng hoá Trung Quốc và tất cả các nước ở châu Á cũng như trên toàn thế giới, bao gồm cả Liên minh châu Âu”.
Sau đó, phát biểu tại thành phố Savannah (bang Georgia), ông hứa hẹn: “Bạn sẽ thấy một cuộc di cư hàng loạt của ngành sản xuất từ Trung Quốc đến Pennsylvania, từ Hàn Quốc đến North Carolina, từ Đức đến Georgie này”.
“Tôi muốn các công ty ô tô của Đức trở thành công ty ô tô của Mỹ, tôi muốn họ xây nhà máy của mình ở đây”, ông nói thêm.
Chúng ta có thể thấy cùng với đối thủ Trung Quốc, các đồng minh và đối tác hàng đầu của Mỹ tại châu Á cũng như châu Âu đều có thể vào tầm ngắm của ông Trump.
Với mức thặng dư thương mại lớn nhất trong tất cả các đối tác của Mỹ và mối quan hệ căng thẳng với Washington, Trung Quốc phải đối mặt với rủi ro đáng kể. Như đã đề cập phía trên, ông Trump dự tính áp thuế từ 60% trở lên đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Trong khi đương kim Tổng thống Joe Biden áp dụng chiến lược có chọn lọc hơn, bao gồm việc áp thuế quan 100% lên xe điện và 50% đối với chip bán dẫn Trung Quốc kể từ năm 2025, các chính sách của ông Trump sẽ có phạm vi rộng hơn.
Theo một phân tích của tờ Economist, các chính sách của ông Biden chỉ ảnh hưởng khoảng 18 tỷ USD hàng hoá Trung Quốc, còn kế hoạch đánh thuế của ông Trump sẽ tác động đến khoảng 427 tỷ USD hàng nhập khẩu từ quốc gia tỷ dân.
Mexico – nước xuất khẩu hàng hoá lớn nhất sang Mỹ – cũng là một đối tác có nguy cơ chịu thiệt hại nặng nề bởi các đề xuất thuế quan của ông Trump. Trong 8 tháng đầu năm nay, Mexico xuất khẩu tổng cộng 334,7 tỷ USD hàng hoá sang Mỹ.
Khi chuỗi cung ứng xích gần về Mỹ hơn, thặng dư thương mại hàng hoá của Mexico với nền kinh tế lớn nhất thế giới đã tăng gần 40% kể từ năm 2020. Phần lớn hàng hoá mà Mexico xuất khẩu sang Mỹ là ô tô và các mặt hàng nhạy cảm khác như nhôm và thép.
Hiện tại, Mexico, Canada và Mỹ là thành viên của thoả thuận thương mại USMCA. Các hàng hoá đáp ứng điều khoản của thoả thuận được miễn thuế quan. Nếu ông Trump trở lại Nhà Trắng, hiệp định này có thể bị xoá sổ khi ba bên đàm phán lại vào năm 2026.
Đức và Nhật Bản – lần lượt là nước xuất khẩu hàng hoá lớn thứ 4 và thứ 5 sang Mỹ – có thể cũng đang bất an bởi cựu Tổng thống Trump từng nhắc đến việc áp thuế 100% đối với một số loại xe hơi nhập khẩu.
Bên cạnh đó, cả Việt Nam và Ấn Độ đều chịu rủi ro cao do vai trò ngày càng lớn trong hoạt động thương mại với Mỹ. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và là đối tác thương mại lớn nhất của Ấn Độ. Ngoài ra, cả hai đều có thặng dư thương mại lớn với Mỹ.
Các mặt hàng nào của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng?
Theo số liệu của Cục Phân tích Kinh tế Mỹ, trong 8 tháng đầu năm nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều giữa Mỹ và Việt Nam đạt 94 tỷ USD – tăng khoảng 18,2% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, Việt Nam xuất khẩu khoảng 85,8 tỷ USD hàng hoá, là thị trường nhập khẩu lớn thứ 7 của Mỹ. Ở chiều ngược lại, Việt Nam nhập khẩu khoảng 8,2 tỷ USD hàng hoá từ Mỹ.
Qua đó, Việt Nam ghi nhận thặng dư thương mại hàng hoá khoảng 77,6 tỷ USD với nền kinh tế số một thế giới, đứng thứ ba trong danh sách sau Trung Quốc và Mexico.
Về các hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ trong 8 tháng đầu năm, đứng đầu vẫn là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện. Theo dữ liệu từ Tổng cục Hải quan Việt Nam, kim ngạch của nhóm hàng này đạt 15,5 tỷ USD – tăng 50,8% so với cùng kỳ.
Tiếp đến là máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 13 tỷ USD – tăng 22,9% so với một năm trước. Xuất khẩu dệt may sang Mỹ cũng tăng gần 8%, đạt 10,8 tỷ USD.
Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu của nhiều nhóm hàng khác cũng tăng mạnh ở mức hai con số như điện thoại các loại và linh kiện đạt 7,3 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 5,7 tỷ USD; giày dép các loại đạt 5,6 tỷ USD,…
Nếu ông Trump xúc tiến kế hoạch áp thuế phổ quát lên hàng hoá của mọi quốc gia khác, các mặt hàng kể trên nhiều khả năng sẽ là những sản phẩm có nguy cơ rơi vào tầm ngắm.