Chủ Nhật, Tháng 10 12, 2025

Tất cả thông tin về chương trình MBA

Học MBA online
Trang chủKỹ NăngChứng KhoánThị trường diễn biến thế nào sau kỳ nghỉ lễ 2/9?

Thị trường diễn biến thế nào sau kỳ nghỉ lễ 2/9?

Mo tai khoan chung khoan Techcombank so dep tu chon

Sau kỳ nghỉ lễ Quốc khánh 2/9, điều nhà đầu tư quan tâm là diễn biến thị trường sẽ như thế nào khi áp lực đáo hạn trái phiếu tiếp tục là điểm nóng, thông tin cuộc họp về lãi suất của Fed sẽ được theo dõi chặt chẽ và những thay đổi của Thông tư 06 cũng là nhân tố ảnh hưởng mạnh đến hai nhóm ngành lớn nhất thị trường là ngân hàng và bất động sản.

Theo thống kê của ĐTCK, trong 15 năm trước kỳ nghỉ lễ, VN-Index đã có 10 tuần tăng và 5 tuần giảm, trong khi HNX-Index có 11 tuần tăng và 4 tuần giảm.

Điều đáng chú ý, đa số các tuần tăng/giảm trước kỳ nghỉ của 2 chỉ số này đều song hành cùng nhau qua các năm, trừ năm 2015, khi đó, VN-Index giảm 1,5% thì HNX-Index lại tăng 1,11%.

Còn sau kỳ nghỉ lễ 2/9, VN-Index và HNX-Index cũng có những diễn biến tương đồng, khi cùng tăng hoặc giảm, ngoại trừ năm 2012, 2016 và 2020.

Với VN-Index, tuần tăng mạnh nhất trước kỳ nghỉ là vào năm 2011, khi đó chỉ số +7,6%, trong khi giảm mạnh nhất là năm 2013 với -1,89%. Ngược lại, sau kỳ nghỉ, năm tăng tốt nhất vào 2011 khi tăng 5,56% và năm 2009 là năm tệ nhất, khi chỉ số mất 3,53%.

Tuần sau kỳ nghỉ lễ gần nhất, với ngày giao dịch từ 05/9 đến 09/9/2022, chỉ số VN-Index có đợt phục hồi mạnh và tăng hơn 40 điểm, tương đương +3,44% lên hơn 1.224 điểm.

Đối với HNX, tuần tăng mạnh nhất trước kỳ nghỉ rơi vào năm 2010 với +10,95%, trong khi giảm mạnh nhất là năm 2012 và năm 2022, cùng với mức giảm -2,53%. Ngược lại, sau kỳ nghỉ, tăng tốt nhất là năm 2011 với mức +1,87% và giảm sâu nhất cũng là năm 2009 với mức -3,1%.

Diễn biến thị trường trong tuần trước và sau kỳ nghỉ lễ 2/9 từ năm 2009 đến nay:

Năm

Tuần trước kỳ nghỉ

Tuần sau kỳ nghỉ

VN-Index HNX-Index VN-Index HNX-Index
2009 +2,08% +2,74% -3,53% -3,1%
2010 +6,78% +10,95% -1,56% -0,17%
2011 +7,6% +8,55% +5,56% +1,87%
2012 -0,84% -2,53% +0,4% -2,04%
2013 -1,89% -0,35% +1,56% -1,28%
2014 +2,64% +4,37% +0,31% +1,72%
2015 -1,5% +1,11% -0,97% -0,93%
2016 +2,02% +0,14% -0,34% +0,52%
2017 +2,2% +1,15% +1,57% +0,01%
2018 +0,3% +1,05% -2,08% -1%
2019 -0,86% -0,9% -1,08% -1,37%
2020 +1,49% +2,3% -1,39% +0,13%
2021 +2,75% +2,56% +0,8% +1,27%
2022 -0,16% -2,53% -2,48% -2,5%
2023 +3,44% +2,82%

Còn trong tháng 9 khoảng những năm gần đây, thì vào các năm 2017 và 2018, thị trường đều tăng rất tốt, đặc biệt là năm 2018, chỉ số đã vọt lên trên 1.017 điểm từ mức quanh vùng 98x-99x điểm trong tháng 7, tháng 8 trước đó.

Tuy nhiên, sau đó, thị trường dần đuối sức và bắt đầu suy yếu mạnh khi bước vào tháng 10, với phiên mất hơn 48 điểm vào ngày 11/10 (-4,84%) – phiên “đen tối” thứ hai của VN-Index, sau phiên ngày 5/2 với mức giảm 5,1%.

Đáng kể nhất là “tháng 9 Covid” trong năm 2020, khi VN-Index có thời điểm tăng lên cao nhất 914,5 điểm. Kể từ khi Covid-19 bùng phát hồi tháng 3 gây ra tâm lý hoảng loạn và đợt bán tháo trên diện rộng của sàn chứng khoán, VN-Index lần đầu tiên trụ vững ở mốc 900 điểm khi kết thúc tháng này và tăng hơn 38% so với mức đáy 655 điểm cuối quý I.

Còn thanh khoản ghi nhận tăng tháng thứ ba liên tiếp. Tháng 9 cũng là tháng có giá trị giao dịch bình quân mỗi ngày lớn nhất từ đầu năm 2020 (hơn 5.000 tỷ đồng/phiên).

Tháng 9/2022, thị trường đã có đợt lao dốc mạnh với mức giảm gần 150 điểm của VN-Index, từ ngưỡng 1.280 điểm xuống gần 1.132 điểm, tương đương mất 11,5% và ghi nhận là tháng 9 tồi tệ nhất từ trước đến nay.

Thanh khoản thị trường ghi nhận giá trị và khối lượng giao dịch bình quân phiên lần lượt chỉ đạt trên 13.396 tỷ đồng và 527,18 triệu cổ phiếu, tương ứng giảm 14,16% về giá trị bình quân và 15,9% về khối lượng bình quân so với tháng trước đó.

Trong tháng 9/2022, Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất điều hành 1%, sau gần 11 năm kể từ lần tăng gần nhất.

Với mức điều chỉnh kể trên, lãi suất điều hành đã về lại mức tương đương tháng 3/2020, và thấp hơn 50 điểm cơ bản so với thời điểm trước Covid-19 (ngoại trừ trần lãi suất huy động dưới 6 tháng).

Động thái này diễn ra ngay sau khi Fed nâng lãi suất điều hành trong kỳ họp tháng 9/2022, và tương đồng với xu hướng của các ngân hàng trung ương khác trên thế giới để chống lạm phát và còn kéo dài cho đến nay…

Diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam trong tháng 9 từ năm 2009:

Tháng 9 các năm VN-Index HNX-Index
2009 +6,23% +7,02%
2010 -0,13% -0,85%
2011 +0,51% -2,52%
2012 -0,87% -9,7%
2013 +4,21% -0,39%
2014 -5,94% +1,82%
2015 -0,37% +1,39%
2016 +1,64% +0,73%
2017 +2,76% +3,63%
2018 +2,78% +3,09%
2019 +1,57% -2,67%
2020 +2,67% +6,47%
2021 +0,8% +4,23%
2022 -11,5% -14,3%

Trong tháng 9/2023, thông tin được chờ đợi nhất là cuộc họp thường niên bàn về lãi suất của Fed. Giới phân tích dự báo Fed sẽ dừng tăng lãi suất trong đợt này, sau một loạt dữ liệu kinh tế cho thấy sự chậm lại trong nền kinh tế Mỹ.

Tại thị trường trong nước, một vấn đề được theo dõi sát sao là thị trường trái phiếu, khi có khoảng 25.820 tỷ đồng trái phiếu đáo hạn.

Theo thống kê ước tính trong cả năm 2023, tháng 9 chỉ đứng sau tháng 6 (với 34.796 tỷ đồng) và tháng 8 (với 27.854 tỷ đồng) về giá trị trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn theo tháng.

Trong bối cảnh đó, danh sách các doanh nghiệp chậm thanh toán theo công bố của HNX vẫn đang kéo dài thêm qua từng ngày. Tính đến ngày 24/8/2023, có khoảng 67 doanh nghiệp nằm trong danh sách chậm nghĩa vụ thanh toán lãi hoặc nợ gốc trái phiếu doanh nghiệp.

Chi tiết xem thêm bên dưới (*).

Bên cạnh đó, Thông tư số 10/2023/TT-NHNN được Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 23/8/2023 đã ngưng hiệu lực thi hành một số điều khoản tại Thông tư số 06/2023/TT-NHNN cũng sẽ được thị trường phân tích và đánh giá sâu hơn.

Ngoài ra, còn có những thông tin về các dự án đầu tư công lớn, các số liệu kinh tế vĩ mô, kỳ vọng vào một số báo cáo kết quả kinh doanh quý III/2023 cũng sẽ có ảnh hưởng lớn đến thị trường.


(*) Áp lực đáo hạn trái phiếu tăng cao trong khi cả khối lượng phát hành mới và mua lại trước hạn đều giảm

Theo dữ liệu từ FiinRatings, diễn biến thị trường trái phiếu doanh nghiệp cho thấy áp lực đáo hạn trái phiếu tiếp tục tăng cao trong khi cả khối lượng phát hành mới và mua lại trước hạn đều giảm.

Áp lực đáo hạn trái phiếu tăng cao trong khi cả khối lượng phát hành mới và mua lại trước hạn đều giảm
Các dữ liệu thống kê cho thấy, áp lực đáo hạn trái phiếu tăng cao trong khi cả khối lượng phát hành mới và mua lại trước hạn đều giảm. Ảnh minh họa, nguồn – Int

Cụ thể, theo dữ liệu từ FiinRatings, tính đến ngày 29/08/2023, thị trường trái phiếu doanh nghiệp tháng 8 ghi nhận phát hành mới 18 lô trái phiếu trị giá 21,36 nghìn tỷ VNĐgiảm 31,69% so với tháng trước và tương đương 91,15% so với cùng kì năm ngoái.

Trong đó, giá trị phát hành từ nhóm ngành Tổ chức tín dụng tiếp tục chiếm tỉ lệ lớn với 55,65% trên tổng phát hành trong tháng.

Quy mô trái phiếu mua lại trước ngày đáo hạn cũng chứng kiến sự sụt giảm với tổng khối lượng đạt 12,36 nghìn tỷ VNĐ, giảm 50.85% so với tháng 7 và 44,21% so với cùng kì năm trước.

Cơ cấu trái phiếu mua lại vẫn giữ ổn định với nhóm Tổ chức tín dụng chiếm đa số (49,39%), tiếp theo đến nhóm ngành Bất động sản và các nhóm ngành khác.

Theo nhận định của FiinRatings, trong các tháng tiếp theo, áp lực đáo hạn vẫn sẽ tiếp tục là khó khăn chung của thị trường.

Cụ thể, quý 4 năm 2023 là cao điểm đáo hạn trái phiếu với tổng giá trị lên đến 65,5 nghìn tỷ VNĐ (không tính các lô giãn hoãn), với gần 80% thuộc nhóm ngành Bất động sản.

Dù thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn nhiều khó khăn nhưng theo FiinRating, việc ngân hàng Nhà nước vừa ban hành Thông tư số 10/2023/TT-NHNN ngày 23/8/2023 nhằm ngưng hiệu lực các điều khoản liên quan đến hoạt động cho vay tái cơ cấu nợ và hợp đồng hợp tác đầu tư cũng phần nào gỡ bỏ nút thắt của thị trường bằng việc cho phép các doanh nghiệp đang gặp khó khăn huy động nguồn vốn mới, từ đó tăng khả năng phục hồi của nhóm ngành Bất động sản nói riêng và toàn thị trường nói chung.

Áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp gia tăng

Theo các dữ liệu công khai từ Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), kể từ quý 2 năm 2022, thị trường trái phiếu doanh nghiệp bất động sản ghi nhận hàng loạt thông tin tiêu cực.

Việc huy động vốn từ trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) nói chung, TPDN bất động sản nói riêng bị “chặn”. Cùng với đó là sự kiểm soát, cảnh báo từ cơ quan chức năng, các văn bản yêu cầu các cơ quan liên quan chấn chỉnh và ổn định hoạt động của thị trường TPDN nhằm đảm bảo thị trường hoạt động an toàn, hiệu quả lành mạnh và minh bạch.

Theo đó, giá trị phát hành trái phiếu riêng lẻ liên tục tụt giảm kể từ tháng 6 năm 2022 và chỉ ghi nhận sự cải thiện trở lại kể từ tháng 3 năm nay nhờ nghị định số 08/NĐ-CP và một số động thái từ phía Ngân hàng nhà nước.

Nhóm ngành bất động sản xếp vị trí thứ 2 trong tổng giá trị phát hành TPDN được ghi nhận trong 7 tháng đầu năm 2023 với 26.055 tỷ đồng (chiếm 33%). Nhiều DN đã đàm phán thành công với các chủ sở hữu trái phiếu để gia hạn thời hạn trả nợ.

Tuy nhiên, khó khăn vẫn ở phía trước, việc gia hạn thời gian trả nợ chỉ giúp DN có thời gian ổn định lại sản xuất, kinh doanh và tái cơ cấu lại nợ doanh nghiệp để phục hồi. Về cơ bản chỉ là chuyển từ nợ ở thời điểm này sang thời điểm khác.

Dữ liệu từ HNX cho thấy, tháng 9 vẫn được coi là “cao điểm” đáo hạn, một trong những tháng có giá trị đáo hạn trái phiếu lớn nhất trong cả năm 2023, với khoảng 41.000 tỷ đồng trái phiếu đến hạn.

Danh sách các doanh nghiệp chậm thanh toán vẫn đang kéo dài thêm qua từng ngày. Tính đến ngày 24/8/2023, có khoảng 67 doanh nghiệp nằm trong danh sách chậm nghĩa vụ thanh toán lãi hoặc nợ gốc trái phiếu doanh nghiệp.

Chương trình ưu đãi đặc biệt: Mở tài khoản chứng khoán Techcombank Securities với Cố vấn đầu tư cao cấp, quản lý tài sản và ủy quyền đầu tư. Chi tiết liên hệ Hotline/ Zalo/ Telegram: 0905 889 188Mo tai khoan chung khoan Techcombank so dep tu chon
TIN CÙNG CHUYÊN MỤC

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin mới nhất