Trung Quốc đang mất dần thị phần sản xuất và xuất khẩu trong các lĩnh vực chính vào các nước láng giềng châu Á và các chính sách Zero Covid là một trong những lý do.
Theo dữ liệu từ công ty kinh tế vận tải MDS Transmodal, Trung Quốc đã mất vị thế trong các ngành hàng tiêu dùng chính, bao gồm quần áo và phụ kiện, giày dép, đồ nội thất và hàng du lịch, đồng thời đang ghi nhận sự sụt giảm về tỷ trọng xuất khẩu từ khoáng sản đến công nghệ văn phòng.
Antonella Teodoro, cố vấn cấp cao tại MDS Transmodal cho biết: “Phương pháp tiếp cận Zero Covid của Trung Quốc đang tác động đến sản xuất và các nhà sản xuất đang tìm kiếm các giải pháp thay thế”.
“Đi sâu vào các nhóm hàng hóa riêng lẻ xuất khẩu từ Trung Quốc, chúng tôi nhận thấy rằng Trung Quốc đang tiếp tục mất thị phần, trong đó Việt Nam là một trong những quốc gia có tầm quan trọng trên trường quốc tế”, ông cho biết.
Thị phần xuất khẩu các mặt hàng của Trung Quốc có xu hướng giảm dần kể từ năm 2016 |
Quan điểm đó phù hợp với các nghiên cứu thị trường khác gần đây về những lợi ích mà Việt Nam đạt được nói riêng.
Ông Antonella Teodoro cho biết, việc Việt Nam gần Trung Quốc và nhân công rẻ là những lý do tại sao Việt Nam được xem là một lựa chọn thay thế phù hợp.
Thị phần xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam có xu hướng tăng dần kể từ năm 2016 |
Vào tháng 7, hãng tàu container lớn thứ hai thế giới MSC cùng với Tổng công ty Hàng hải Việt Nam đã công bố về việc thành lập một dự án cảng container trung chuyển mới gần Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi hoàn thành, dự án này sẽ trở thành “siêu cảng” lớn nhất Việt Nam. Cả Maersk và CMA CGM cũng đang đầu tư vào việc mở rộng cơ sở của họ ở Việt Nam.
“Các hãng tàu đang tìm kiếm thị trường và đầu tư, mở rộng thị trường mới. Họ nhận thức được nhu cầu và đang tạo ra một thị trường bằng những khoản đầu tư này”, ông Antonella Teodoro cho biết.
Trong khi đó, theo MDS Transmodal, Malaysia và Bangladesh cũng đã lấy thị phần từ ngành sản xuất hàng may mặc của Trung Quốc.
Malaysia và Bangladesh lấy thị phần từ ngành sản xuất và may mặc của Trung Quốc |
Theo Akhil Nair, Phó chủ tịch cấp cao về sản phẩm khu vực châu Á – Thái Bình Dương của SEKO Logistics, kể từ khi Mỹ áp thuế thương mại vào năm 2018, đã có một cuộc săn lùng các địa điểm tìm nguồn cung ứng thay thế cho Trung Quốc, ban đầu chỉ giới hạn trong lĩnh vực thời trang và giày dép. Tác động kép của các biện pháp đóng cửa do Covid ở Trung Quốc (Thâm Quyến, Ninh Ba…) và sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng đã dẫn đến một sự gia tăng nhanh chóng trong việc khách hàng bảo vệ các khu vực địa lý tìm nguồn cung ứng của họ, đặc biệt là với các quốc gia như Việt Nam”.
Theo SEKO Logistics, sự gia tăng thương mại nội Á đối với dòng nguyên liệu thô và xuất khẩu hàng hóa thành phẩm tiếp theo đã gia tăng ở Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á khác.
“Mặc dù các vụ đóng cửa gần đây của Trung Quốc không ảnh hưởng đến hoạt động của tàu thuyền hoặc các cảng, nhưng rõ ràng là vẫn có tác động đến các bộ phận phụ thuộc nhiều khác của chuỗi cung ứng như vận tải đường bộ, kho CFS và bãi chứa container trong một số trường hợp”, ông Akhil Nair cho biết.
Dữ liệu từ công ty theo dõi hàng hóa Project44 cho thấy, tổng công suất tàu container rời các cảng Trung Quốc đã giảm kể từ khi đại dịch xuất hiện dẫn tới tình trạng đóng cửa ồ ạt vào đầu năm 2021.
Theo Josh Brazil, Phó chủ tịch phụ trách chuỗi cung ứng của Project44, công suất hàng tháng trước năm 2021 khoảng 11,2 triệu TEU, nhưng nay đã giảm xuống còn 8,6 triệu TEU.
Theo số liệu của FreightWaves SONAR, số lượng các chủ hàng đặt hàng vận chuyển container bằng các hãng vận tải biển đã tiếp tục giảm.
Alan Baer, Giám đốc điều hành của OL USA cho biết: “Sự kết hợp của tồn kho dư thừa cùng với nhu cầu giảm tiếp tục đè nặng lên khối lượng nhập khẩu ở Thái Bình Dương”.